Chủ nhiệm HLV Lê Hoàng Nam SĐT: 0935.464.029 Địa chỉ : 504 / 58C Đ. Kinh Dương Vương, P. Phú Thuận, Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh Khung giờ tập luyện : 16h40 - 18h15 thứ 2,4,6
Chủ nhiệm HLV Lê Hoàng Nam SĐT: 0935.464.029 Địa chỉ : 504 / 58C Đ. Kinh Dương Vương, P. Phú Thuận, Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh Khung giờ tập luyện : 16h40 - 18h15 thứ 2,4,6
Các Thành viên sẽ thực hiện những biện pháp cần thiết để bảo đảm rằng việc đánh thuế đối kháng[36] với bất kỳ sản phẩm nào của bất kỳ Thành viên nào nhập khẩu vào lãnh thổ của một Thành viên khác phù hợp với các quy định của Điều VI Hiệp định GATT 1994 và phù hợp với các các quy định của Hiệp định này. Các loại thuế đối kháng chỉ được áp dụng căn cứ trên cơ sở điều tra đã được khởi tố và thực hiện[37] phù hợp với các quy định của Hiệp định này và Hiệp định về nông nghiệp.
11.1 Trừ trường hợp quy định tại khoản 6, việc điều tra để xác định sự tồn tại, mức độ và tác động của việc được coi là trợ cấp sẽ được khởi xướng trên cơ sở đề nghị bằng văn bản của hoặc thay mặt cho một ngành sản xuất trong nước.
11. 2 Đề nghị nêu tại khoản 1 phải bao gồm những bằng chứng về sự tồn tại của: (a) khoản trợ cấp và nếu có thể nêu rõ cả giá trị trợ cấp, (b) thiệt hại theo nghĩa của Điều VI Hiệp định GATT 1994 được giải thích theo Hiệp định này, và (c) mối quan hệ nhân quả giữa nhập khẩu được trợ cấp với thiệt hại được cho là đã xảy ra. Một sự khẳng định giản đơn, không thuộc về bản chất thì không thể được coi là đủ để đáp ứng các yêu cầu của khoản này. Đơn yêu cầu sẽ phải bao gồm những thông tin mà người yêu cầu có được một cách hợp lý về những nội dung sau đây:
(i) Căn cứ của người yêu cầu và mô tả về khối lượng và trị giá của sản xuất trong nước về sản phẩm tương tự của người yêu cầu . Khi đơn yêu cầu được nộp nhân danh một ngành sản xuất trong nước, thì đơn yêu cầu đó sẽ xác định ngành sản xuất trong nước bằng một danh sách những nhà sản xuất trong nước sản xuất sản phẩm tương tự (hoặc hiệp hội những nhà sản xuất trong nước về sản phẩm tương tự) và trong chừng mực có thể, mô tả khối lượng và trị giá sản xuất trong nước của sản phẩm tương tự mà những nhà sản xuất này sản xuất ra
(ii) mô tả đầy đủ về sản phẩm bị coi là được trợ cấp, tên nước hay những nước xuất xứ hoặc xuất khẩu sản phẩm đó, căn cứ của mỗi nhà xuất khẩu hay nhà sản xuất nước ngoài đã biết và một danh sách những người nhập khẩu sản phẩm đó đã biết.
(iii) bằng chứng về sự tồn tại, số lượng và tính chất của trợ cấp.
(iv) bằng chứng về thiệt hại được coi là đã xảy ra đối với ngành sản xuất trong nước do sản phẩm nhập khẩu được trợ cấp gây ra do tác động của trợ cấp; bằng chứng đó phải có những thông tin về sự thay đổi trong khối lượng nhập khẩu hàng có trợ cấp, tác động của nhập khẩu đó với giá cả những sản phẩm tương tự trên thị trường trong nước và những tác động của hàng nhập khẩu đó đối với ngành sản xuất trong nước, được chứng minh bằng những yếu tố cùng chỉ số có liên quan thể hiện tình trạng của ngành sản xuất trong nước, như các vấn đề nêu tại các khoản 2 và 4 Điều 15.
11. 3 Cơ quan có thẩm quyền phải kiểm tra lại tính đúng đắn và đầy đủ của bằng chứng được cung cấp trong đơn để xác định xem bằng chứng đó có đủ để bắt đầu điều tra không.
11. 4 Việc điều tra theo quy định tại khoản 1 sẽ không được bắt đầu trừ khicơ quan có thẩm quyền, trên cơ sở xem xét mức độ đồng tình hay phản đối của những nhà sản xuất trong nước những sản phẩm tương tự với yêu cầu đã xác định rằng đơn yêu cầu đã được nộp bởi[38] hoặc nhân danh ngành sản xuất trong nước[39]. Đơn yêu cầu được coi là được nộp bởi hoặc nhân danh một ngành sản xuất trong nước nếu được những nhà sản xuất có chung khối lượng sản xuất chiếm trên 50% của tổng lượng sản xuất sản phẩm tương tự của những nhà sản xuất thể hiện sự ủng hộ hay phản đối đơn yêu cầu. Tuy nhiên, việc điều tra sẽ không được tiến hành nếu tiếng nói của các nhà sản xuất trong nước ủng hộ đơn đó không vượt quá 25% tổng khối lượng của ngành sản xuất sản phẩm tương tự trong nước.
1. 5 Cơ quan có thẩm quyền sẽ tránh không công bố đơn yêu cầu bắt đầu điều tra, trừ khi đã có quyết định bắt đầu điều tra.
11. 6 Trong trường hợp đặc biệt, khi cơ quan có thẩm quyền quyết định điều tra mà không nhận được đơn của và nhân danh một ngành sản xuất trong nước yêu cầu tiến hành điều tra, thì Cơ quan có thẩm quyền chỉ bắt đầu điều tra nếu đã có đủ bằng chứng về một trợ cấp, thiệt hại và mối quan hệ nhân quả như đã nêu tại khoản 2 để chứng minh rằng việc bắt đầu tiến hành điều tra này là cần thiết.
11. 7 Bằng chứng của cả việc trợ cấp lẫn thiệt hại sẽ được xem xét cùng một lúc: (a) khi ra quyết định có bắt đầu điều tra không và (b) sau đó trong tiến trình điều tra, bắt đầu vào một ngày không chậm hơn ngày sớm nhất mà một biện pháp tạm thời có thể được áp dụng theo quy định của Hiệp định này.
11. 8 Trong trường hợp sản phẩm không được nhập khẩu trực tiếp từ nước xuất xứ mà được xuất khẩu vào Thành viên nhập khẩu thông qua một nước trung gian, các quy định của Hiệp định này vẫn được áp dụng đầy đủ, và (những) giao dịch đó vẫn được coi là được tiến hành trực tiếp giữa nước xuất xứ và Thành viên nhập khẩu theo Hiệp định này.
11. 9 Đơn yêu cầu nêu tại khoản 1 bị từ chối và việc điều tra bị chấm dứt ngay lập tức khi cơ quan có thẩm quyền có liên quan thấy không đủ bằng chứng về việc tồn tại một trợ cấp hay tổn hại để tiến hành điều tra. Trong trường hợp trợ cấp chỉ ở mức tối thiểu (de minimis) hoặc khối lượng nhập khẩu được trợ cấp hiêệ tại hoặc trong tương lai, hoặc thiệt hại là không đáng kể, thì việc điều tra sẽ được chấm dứt ngay lập tức. Theo khoản này, khối lượng trợ cấp được coi là ở mức tối thiểu nếu thấp hơn 1% ị giá trị của sản phẩm.
11. 10. Việc điều tra không được làm ảnh hưởng đến thủ tục thông quan.
Không một Thành viên nào thông qua việc sử dụng bất kỳ trợ cấp nào nêu tại khoản 1 và 2 của Điều 1 để gây ra tác động có hại đến quyền lợi của Thành viên khác, cụ thể như:
(a) gây tổn hại cho một ngành sản xuất của một Thành viên khác[11];
(b) làm vô hiệu hay gây phương hại đến những quyền lợi mà Thành viên khác trực tiếp hoặc gián tiếp được hưởng từ Hiệp định GATT 1994, đặc biệt là những quyền lợi có được từ những nhân nhượng đã cam kết theo Điều 2 của Hiệp định GATT 1994[12];
(c) gây tổn hại nghiêm trọng tới quyền lợi của một Thành viên khác[13].
Điều này không áp dụng với những trợ cấp được áp dụng với nông sản quy định tại Điều 12 Hiệp định nông nghiệp.
6.1 Theo điểm (c) của Điều 5, tổn hại nghiêm trọng được coi là tồn tại trong trường hợp:
(a) tổng trị giá trợ cấp[14] cho một sản phẩm vượt quá 5%[15];
(b) trợ cấp để bù cho sự thua lỗ kéo dài trong hoạt động kinh doanh của một ngành sản xuất;
(c) trợ cấp để bù cho các hoạt động kinh doanh thua lỗ của một doanh nghiệp, trừ khi đó là một biện pháp nhất thời một lần và không lặp lại với doanh nghiệp đó và được cấp chỉ thuần tuý để cho phép có thời gian tìm kiếm một giải pháp lâu dài và tránh phát sinh một vấn đề xã hội gay gắt;
(d) trực tiếp xoá nợ như xoá một khoản nợ Nhà nước hay cấp kinh phí để thanh toán nợ[16].
6.2 Cho dù có các quy định tại khoản 1, sẽ không coi là có tổn hại nghiêm trọng nếu Thành viên áp dụng trợ cấp chứng minh được rằng việc trợ cấp được nêu ra không dẫn đến bất kỳ tác động nào nêu tại khoản 3.
6.3 Tổn hại nghiêm trọng hiểu theo nghĩa của của điểm (c) Điều 5 có thể phát sinh trong bất kỳ trường hợp nào khi:
(a) trợ cấp làm triệt thoái hay ngăn cản nhập khẩu các sản phẩm tương tự của một Thành viên khác vào thị trường Thành viên đang áp dụng trợ cấp;
(b) trợ cấp đã làm triệt thoái hay ngăn cản xuất khẩu các sản phẩm tương tự của một Thành viên khác từ thị trường của một nước thứ ba;
(c) trợ cấp đã làm hạ giá ở mức độ lớn của một sản phẩm được trợ cấp so với giá của sản phẩm tương tự của một Thành viên khác trên cùng một thị trường hay gây ra ép giá, đè giá hay giảm doanh số đáng kể trên cùng một thị trường.
(d) trợ cấp đã làm tăng thị phần trên thị trường thế giới của Thành viên đang áp dụng trợ cấp với một sản phẩm hoặc mặt hàng chưa chế biến được trợ cấp[17] so với mức thị phần trung bình của Thành viên đó trong ba năm trước đó hoặc trợ cấp như vậy duy trì một tốc độ tăng đều trong thời kỳ được trợ cấp.
6. 4 Theo điểm 3(b), sự triệt thoái hay ngăn cản xuất khẩu bao gồm bất kỳ trường hợp nào đã chứng minh được, tuỳ thuộc quy định của khoản 7, rằng có sự thay đổi tương quan thị phần bất lợi cho một sản phẩm tương tự không được trợ cấp (trong một thời gian đủ mang tính đại diện để chứng minh cho một xu thế tiến triển thị trường của sản phẩm liên quan, mà trong tình huống bình thường cũng phải tối thiểu là một năm). “Sự thay đổi tương đối thị phần” bao gồm bất kỳ một tình huống nào sau đây: (a) có sự tăng thị phần của sản phẩm được trợ cấp; (b) thị phần của sản phẩm được trợ cấp vẫn được giữ vững trong hoàn cảnh mà nếu không có trợ cấp sẽ bị giảm; (c) thị phần của sản phẩm được trợ cấp suy giảm, nhưng với tốc độ chậm hơn so với trường hợp không có trợ cấp.
6. 5 Theo điểm 3(c), hạ giá bao gồm những trường hợp, mà trong đó việc hạ giá này được chứng tỏ qua so sánh giá hàng được trợ cấp với giá của sản phẩm tương tự không được trợ cấp cung cấp vào cùng một thị trường. So sánh phải được tiến hành với cùng mức giao thương và với thời gian so sánh được, có tính toán đúng đến bất kỳ nhân tố nào khác tác động đến việc so sánh giữa các loại giá. Tuy nhiên, nếu so sánh trực tiếp không thể thực hiện được, có thể chứng minh có sự hạ giá trên cơ sở đơn giá xuất khẩu.
6. 6 Mỗi Thành viên trên thị trường được coi là có sự tổn hại nghiêm trọng sẽ, theo các quy định của khoản 3 - Phụ lục V, sẵn sàng cung cấp cho các bên tranh chấp theo các quy định tại Điều 7 và cho ban hội thẩm được thành lập theo khoản 4 Điều 7, mọi thông tin liên quan có thể có về sự thay đổi thị phần của các bên tranh chấp cũng như những thông tin về giá sản phẩm liên quan tới tranh chấp.
6. 7 Không được coi là có sự triệt thoái hay ngăn cản dẫn tới tổn hại nghiêm trọng nêu tại khoản 3, khi có bất kỳ trường hợp nào dưới đây tồn tại[18] trong thời kỳ được xem xét:
(a) cấm hay hạn chế xuất khẩu một sản phẩm tương tự từ Thành viên có khiếu nại hay nhập khẩu từ Thành viên có khiếu nại vào một thị trường một nước thứ ba có liên quan;
(b) chính phủ một nước nhập khẩu áp dụng độc quyền thương mại hay thương mại nhà nước đối với sản phẩm liên quan quyết định chuyển việc nhập khẩu, vì những lý do phi thuơng mại, từ nước có khiếu nại sang nhập khẩu từ một hay nhiều nước khác;
(c) có thiên tai, đình công, đình trệ giao thông hay những hoàn cảnh bất khả kháng khác tác động đáng kể đến sản xuất, chất lượng hay giá cả của sản phẩm dành cho xuất khẩu từ Thành viên có khiếu nại;
(d) có sự thoả thuận hạn chế xuất khẩu từ Thành viên có khiếu nại;
(e) tự nguyện giảm khối lượng hàng xuất khẩu liên quan của nước có khiếu nại (bao gồm , nhưng không giới hạn bởi, trường hợp các hãng thuộc Thành viên có khiếu nại chủ động phân bố lại việc xuất khẩu sản phẩm đó vào các thị trường khác);
(f) không tuân theo các tiêu chuẩn hay yêu cầu quy định của nước nhập khẩu.
6. 8 Khi không có những tình huống nêu tại khoản 7, tổn hại nghiêm trọng có thể được xác định trên cơ sở các thông tin mà ban hội thẩm được cung cấp hay có được, kể cả những thông tin được cung cấp theo các quy định của Phụ lục V.
6. 9 Điều này không áp dụng đối với trợ cấp được duy trì với nông phẩm theo quy định tại Điều 13 Hiệp định nông nghiệp.
7. 1 i Trừ những trường hợp quy định tại Điều 13 Hiệp định nông nghiệp, bất kỳ khi nào một Thành viên có lý do để tin rằng một khoản trợ cấp nêu tại Điều 1 được một Thành viên khác áp dụng hay duy trì, dẫn đến thiệt hại, làm vô hiệu hoá, suy giảm hoặc gây tổn hại nghiêm trọng cho một ngành sản xuất của mình, Thành viên này có thể yêu cầu tham vấn với Thành viên kia.
7. 2 Yêu cầu tham vấn nêu tại khoản 1 phải nêu rõ bằng chứng hiện có về (a) sự tồn tại và tính chất của một khoản trợ cấp đã nêu, và (b) thiệt hại gây ra cho ngành sản xuất trong nước, hay sự vô hiệu hoá, suy giảm hoặc tổn hại nghiêm trọng[19] gây ra với quyền lợi của Thành viên yêu cầu tham vấn.
7. 3 Khi có yêu cầu tham vấn theo khoản 1, Thành viên được coi là đang áp dụng hay duy trì trợ cấp sẽ tiến hành tham vấn trong thời gian sớm nhất có thể . Mục đích của tham vấn là nhằm làm rõ thực tế tình hình và đạt được một giải pháp giữa các bên.
7.4 Nếu việc tham vấn không đạt được giải pháp giữa các bên trong vòng 60 ngày[20], bất kỳ Thành viên tham vấn nào cũng có thể đưa vấn đề ra DSB và yêu cầu lập ban hội thẩm giải quyết trừ khi DSB nhất trí quyết định không thành lập ban hội thẩm. Thành phần và nhiệm vụ của ban hội thẩm sẽ được xác định trong vòng 15 ngày kể từ ngày ban được thành lập.
7.5 Ban hội thẩm sẽ xem xét lại vấn đề và có báo cáo gửi các bên tranh chấp. Báo cáo sẽ được gửi tới mọi Thành viên trong vòng 120 ngày kể từ ngày ban hội thẩm được thành lập và điều khoản tham chiếu của ban được xác định.
7. 6 Trong vòng 30 ngày kể từ ngày ban hội thẩm có báo cáo gửi các Thành viên, báo cáo sẽ được DSB thông qua[21] trừ khi có một trong các bên đang tranh chấp chính thức thông báo cho DSB về quyết định của mình sẽ kháng cáo hoặc DSB nhất trí không thông qua báo cáo.
7. 7 Khi một bản báo cáo của ban hội thẩm bị kháng cáo, Cơ quan Phúc thẩm sẽ ra quyết định trong vòng 60 ngày kể từ ngày bên kháng cáo chính thức thông báo ý định kháng cáo. Khi không có điều kiện quyết định trong vòng 60 ngày, Cơ quan Phúc thẩm sẽ thông báo bằng văn bản cho DSB lý do chậm trễ cùng với thời hạn dự kiến sẽ gửi báo cáo. Trong mọi trường hợp, thủ tục giải quyết kháng cáo cũng không quá 90 ngày. Báo cáo phúc thẩm sẽ được DSB thông qua vô điều kiện và được các bên tranh chấp chấp nhận trừ khi DSB nhất trí không thông qua báo cáo đó trong vòng 20 ngày kể từ ngày gửi báo cáo tới các Thành viên[22].
7. 8 Khi báo cáo của Ban hội thẩm hay báo cáo của Cơ quan phúc thẩm được thông qua xác định có tồn tại bất kỳ trợ cấp nào dẫn tới những tác động có hại tới quyền lợi của một Thành viên khác theo nội dung của Điều 5, thì Thành viên cấp hay duy trì trợ cấp sẽ có những biện pháp thích hợp để loại bỏ tác động có hại đó hoặc loại bỏ trợ cấp.
7. 9 Trong trường hợp một Thành viên không thực hiện những biện pháp thích hợp để loại bỏ tác động nghịch đó hoặc loại bỏ trợ cấp trong vòng 6 tháng kể từ ngày DSB thông qua báo cáo hội thẩm hay báo cáo phúc thẩm, và khi không có thoả thuận về đền bù, thì DSB cho phép bên khiếu nại có biện pháp đối kháng, tương xứng với mức độ và tính chất của tác động có hại đã xác định được, trừ khi nhất trí quyết định từ chối yêu cầu đó.
7. 10 Trong trường hợp một bên tranh chấp yêu cầu trọng tài theo quy định tại khoản 6 Điều 22 của DSU, trọng tài sẽ xác định xem biện pháp đối kháng có tương xứng với mức độ và tính chất của tác động nghịch đã được xác định là có tồn tại không.